Xem bài

Xem hát cúng đình

Từ cuối tháng giêng đến tháng 3 âm lịch là mùa lễ cúng đình (hay còn gọi là lễ Kỳ Yên), Theo wiki: Lễ Kỳ yên có nghĩa là lễ cầu an, là lễ tế thần Thành Hoàng lớn nhất trong năm của một ngôi đình thần ở Nam Bộ, Việt Nam. Tùy theo điều kiện kinh tế, nhưng thường thì cứ ba năm (tam niên đáo lệ kỳ yên) Ban quý tế đình làm lễ tế long trọng và qui mô hơn: Đại lễ Kỳ yên, tức ngoài các lễ tế thường kỳ còn có thêm 4 lễ nữa, đó là: Lễ rước Tổ hát bội, lễ Xây chầu, Hát chầu và Hồi chầu. Giới thiệu lễ Kỳ yên ở Nam Bộ xưa, sách Gia Định thành thông chí (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn: Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở Nam Bộ) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về...[1> Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau: Có các lễ tế: Ngày thứ nhất: Lễ rước Tổ hát bội Đến kỳ đáo lệ Kỳ yên (Đại lễ Kỳ yên), ngay từ sáng sớm, Ban quí tế cử người bưng một khai gỗ có trầu, rượu, hương, đèn, tiền lễ; cùng 4 quân hầu cầm 4 món thuộc bộ Lỗ bộ và Ban nhạc lễ ra tận cổng để rước Tổ hát bội vào đình, rồi đặt trang trọng sau hậu trường võ ca. Lễ Thỉnh sắc Sau khi an vị Tổ hát bội xong, một đám rước với đầy đủ chiêng, trống, cờ, lộng, long đình cùng đội nhạc lễ, đội lân...đi đến chỗ cất giữ sắc thần (thường thì để ở trong một ngôi nhà kiên cố của một vị chức sắc có uy tín). Đến nơi, người có trách nhiệm vào tế một tuần hương, ba tuần rượu, đọc một bài văn tế ngắn gọn (hay khấn cũng được), rồi đem sắc đặt vào long đình, rước về. Đến đình, phải cử hành thêm nghi thức an vị, gồm: một tuần hương, ba tuần rượu và một tuần trà, rồi mới đưa tráp đựng sắc phong để trên bàn thờ thần nơi chính điện. Lễ này, Đình Châu Phú (An Giang) tiến hành vào 7 giờ sáng ngày mùng 10 tháng Năm âm lịch. Vào lúc ấy, một đoàn xe được trang hoàng đẹp đẽ chạy đến Nhà lớn cũng ở gần đó, làm lễ thỉnh sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình. Lễ Nghinh Một số làng, sau lễ thỉnh sắc thần Thành hoàng còn tổ chức Lễ Nghinh, tức đưa kiệu đến các đền miếu trong làng, dâng hương, khấn cung thỉnh mời chư vị thần về đình dự lễ. Xong, đem lư hương của các vị thần này lên kiệu trở về, đặt trên bàn hương án bày ở ngoài đình, hoặc trên bàn Hội đồng ngoại ở bên trong đình. Ở Đình Châu Phú, sau khi rước sắc thần Nguyễn Hữu Cảnh về đình; tiếp theo là Lễ nghinh, tức lễ thỉnh sắc thần Thoại Ngọc Hầu tại phủ thờ của ông Nguyễn Khắc Mi (cháu nhiều đời của Thoại Ngọc Hầu), và sắc thần của hai ông là Chánh vệ thủy Đỗ Đăng Tàu và Phó vệ thủy Lê Văn Sanh. Tụng kinh cầu an Có một số đình có phần lễ này. Đây vốn là nghi thức của Phật giáo hội nhập vào đình miếu, mục đích cầu chư Phật, chư thần thánh ban cho dân làng sự an lành. Khởi đầu cử người thiết lập bàn thờ Phật Quan Âm, rồi tiến hành niệm hương tán Phật, tụng kinh Phổ môn; cuối cùng đọc sớ rồi đốt sớ gửi cho chư Phật và cho chư thần thánh. Ngày thứ hai & thứ ba Có các lễ tế: Lễ Túc yết Tức là lễ hương chức ra ra mắt thần. Theo cổ lệ mà sách Gia Định thành thông chí đã biên chép, thì lễ này được tiến hành vào buổi chiều cho đến hết đêm ngày thứ nhất. Nhưng giờ đây, tùy theo điều kiện của mỗi đình, mà giờ giấc có thay đổi đôi chút. Theo sách Sổ tay hành hương đất phương Nam thì, sắp đến giờ hành lễ, các thành viên của Ban tế tự mặc áo thụng xanh, khăn đóng, mang giày đứng sắp hàng hai bên võ ca cùng với ban nhạc lễ, các lễ sinh và đào thài (đào chuyên hát chúc tụng) trong tư thế sẵn sàng. Rồi một lễ sinh bắt đầu xướng các nghi thức và các hương chức được phân công tuần tự thực hiện những nghi thức như sau: • Củ sát tế phẩm: kiểm lại đồ cúng. • Tuần hương: dâng hương. • Tuần rượu thứ nhất: dâng rượu lần nhất. • Đọc văn tế chữ Hán: cầu nguyện thần Thành hoàng phù trợ sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an,... • Tuần rượu thứ hai: dâng rượu lần hai. • Tuần rượu thứ ba: dâng rượu lần ba. • Hiến quả phẩm: dâng trái cây. • Hiến bỉnh: dâng bánh. • Tuần trà: dâng trà • Ẩm phước: giống như lễ "thụ tộ" miền Bắc, tức Ban tế tự được thừa hưởng lễ vật đã dâng cúng, xem như đây như là lộc của thần ban. • Hóa văn tế: có nghĩa đốt văn tế. Có đình giữ đến xong lễ đoàn cả mới đốt. Lễ Tỉnh sanh và lễ Đàn cả Theo Sơn Nam thì Lễ Đàn Cả là quan trọng nhất. Nhà văn viết:...trước đó có lệ Túc yết, tức là ban Tế lễ gom lại, trình diện, diễn tập, có thể so sánh với dịp cúng giỗ ông bà, trước ngày giỗ chánh thức là buổi cúng Tiên. Đình nào khiêm tốn thì bỏ lễ Túc yết cho bớt kinh phí...Vẫn chưa dứt khoát về tên gọi: Đàn hay Đoàn. Trên tấm thiệp mời ở ngôi đền sát chợ Biên Hòa, thấy ghi Đại Đàn. Đàn là nơi cử hành lễ (lập đàn, đàn Nam Giao) có lẽ đúng hơn. Về cơ bản, trong cả nước, nghi thức nhau nhưng "đại đồng tiểu dị". Lễ Tỉnh sanh thường diễn ra lúc 0 giờ (tức giờ Tý), với vật tế là một con heo còn sống, toàn sắc, bị cột bốn chân, đặt trên một chiếc ghế ngựa ngay trước bàn thờ Hội đồng ngoại. Sau khi heo bị thọc tiết, viên chánh tế dùng chén sạch hứng máu cùng một nhúm lông của con vật này, đặt lên bàn hương án. Chén huyết có ít lông này gọi chung là "mao huyết". Theo Sơn Nam, lễ này bắt nguồn từ lễ giết người để tế thần; sau dùng trâu, bò hoặc heo để thay thế. Tỉnh sanh (tỉnh là tịnh, gạn cho trong sạch; sanh mang ý nghĩa hy sinh. Con vật bị giết để tế gọi là hy sinh); nói nôm na, lễ tỉnh sanh là lễ đâm con heo để tế thần[2>. Có nơi, như ở Đình Châu Phú dâng cúng một con heo trắng (heo đã mổ xong, cạo sạch, chưa nấu chín), một chén đựng huyết có một ít lông heo (gọi chung là "mao huyết"), một mâm xôi, một trái cây, một mâm trầu cau, một đĩa muối, gạo. Các lễ vật được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ cao. Ngoài ra còn có những lễ vật khác do nhân dân mang đến dâng cúng. Ngay sau lễ Tỉnh sanh là lễ Đàn cả[3>. Cổ lệ chọn giờ này (giờ Tý) bắt nguồn từ quan niệm dịch lý: đây là giờ “âm lão, dương khởi”, tức là mọi điều tốt lành bắt đầu nảy sinh. Việc hành lễ tương tự như lễ túc yết, duy chỉ khác câu ở phần ẩm phước: lễ túc yết xướng: Nghinh thần cúc cung bái, thì ở lễ này xướng câu: Tạ thần cung cung bái. Lễ Chánh tế Cũng theo sách Gia Định thành thông chí, thì lễ Chánh tế được tổ chức vào sáng hôm thứ hai của lễ Kỳ yên, với phần nghi thức giống như lễ Túc yết. Ở Đình Châu Phú, lễ này được cử hành lúc vào 3 giờ sáng ngày 12 tháng Năm âm lịch, tức sáng sớm ngày thứ ba của cuộc lễ. Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền Đây là lễ tế các vị tiền nhân đã có công lập làng, lập đình; và các anh hùng liệt sĩ địa phương. Có đình tiến hành lễ này ngay sau khi lễ đoàn cả xong, nhưng cũng có đình để sang ngày thứ ba. Điều đặc biệt trong lễ này là cử nhạc lễ theo điệu Nhịp Bụa, nhưng hoàn toàn mang hơi Ai; khác với lễ Túc yết và lễ đoàn cả đều hoàn toàn mang hơi xuân. Lễ Xây chầu Theo Sơn Nam, nét đặc trưng của đình miếu Nam Bộ xưa là mỗi lần có lễ Kỳ yên, thì phải có các lễ: Xây chầu, Đại bội và hát bội. Căn cứ vào lời chúc tụng, lễ Xây chầu có từ đời vua Gia Long. Thường thì lễ này được cử hành sau lễ tế Đàn cả. Về cách thức xây chầu, đại để chia làm ba loại: Xây chầu văn, Xây chầu võ, và Xây chầu bán văn bán võ. Lễ này bắt nguồn từ quan niệm dịch lý của đạo Nho: thuận đạo trời (âm dương), an đạo đất (nhu cương) và hòa đạo người (nhân nghĩa); ba đạo này có hòa hợp thì vạn vật mới hanh thông, tốt đẹp. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì lễ Xây chầu vốn bắt nguồn từ Lễ Đại Bội trong cung đình nhà Nguyễn. Đây là một cảnh diễn lớn, gồm nhiều tiết mục liên hoàn nhằm thể hiện sự sinh thành vũ trụ và phát triển của vạn hữu[4>. Bởi vậy, theo Sơn Nam, Muốn ổn định thời tiết, trật tự xã hội, theo quan niệm xưa, phải tuân theo sự vận hành của Trời Đất mà kim chỉ nam là Kinh Dịch với thuyết âm dương, Bát quái, Ngũ hành. Việc Xây chầu chính là để nhắc nhở nguyên tắc ấy.

Thường thì mỗi năm hay cứ ba năm một lần (đáo lệ Kỳ yên), Ban tế tự đình thuê một gánh hát bội về trình diễn gọi là hát chầu, trước để cúng thần (chức năng chính), sau để giúp vui cho dân làng. Tuồng diễn (thường là 3, 4 tuồng) đều phải tuân thủ một cách nghiêm nhặt những quy phạm chính thống. Điều này thể hiện rõ trong hầu hết mọi nghi thức, nhất là phần lễ tôn vương. Nói chung, các vỡ diễn đều phải biểu hiện cho được ý nghĩa: "trung thắng nịnh, chính thắng tà" và kết thúc bằng một màn tôn chân chúa (tôn vương) hay tôn soái. Tuồng hát bội mà các đình thường chọn hát là San Hậu (tôn vương), Phàn Lê Huê (tôn nữ soái), Tiết Nhơn Quí (tôn soái)...Ở Đình Châu Phú các tuồng được chọn hát thường là: Trần Bình Trọng, Sát Thát, Trưng Nữ Vương, Lưu Kim Đính, San hậu.. Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội”. Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làng Nam Bộ chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới”, nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.[6> Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam Bộ, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.

Tôi được xem một đêm hát tại một ngôi đình nhỏ ở quận 6, sân khấu dựng tạm phía trước đình, dưới chân cầu Hậu Giang. Không phải là hát bội chính thống mà hát cải lương Hồ Quảng ( đoàn diễn vở Tiết Nhơn Quý ), đoàn hát nhỏ, ít người, đào kép đa phần lớn tuổi, cuối mùa nhan sắc. Người hát, người xem quây quần trong không gian chật hẹp, xem lẫn với quán càphê, quán bán thức ăn, quán nhậu. Diễn viên chưa tới lượt diễn ngồi chung với khán giả, thay phục trang, trang điểm giữa chốn đông người. Khán giả đa phần là dân lao động địa phương, thỉnh thoảng cũng có khách đi đường thấy nhộn nhịp dừng chân ghé xem.

Chờ thay trang phục

Ngồi chờ đến lượt diễn

Nói thêm 1 chút về cải lương Hồ Quảng: Cải lương Hồ Quảng. Cải lương: đó là một lối hát tuồng cách tân, phối hợp giữa đối thoại bằng giọng bình thường với những ca điệu truyền thống miền Nam, trong đó chủ yếu là vọng cổ. Khi nói tuồng cải lương là người ta thường nghĩ đến những tuồng tích mang tính chất xã hội, như “Tình Anh Bán Chiếu,” “Ðời Cô Lựu,” hoặc mang tính chất dã sử, như “Sầu Lên Ngọn Cỏ,” “Tiếng Trống Mê Linh”...

Sự thật, có ba loại tuồng cải lương: xã hội, dã sử và Hồ Quảng. Tự Ðiển Mở Wiki gọi “cải lương Hồ Quảng” bằng một tên nữa là “cải lương tuồng cổ.” Cái tên này giúp người ta hiểu được tổng quát về nội dung của loại hình nghệ thuật trình diễn này. “Cải lương Hồ Quảng” cũng là cải lương, nhưng tuồng tích dựa vào những tuồng cổ, mà thường là tuồng cổ Trung Hoa. Có người nói rằng chữ “Hồ Quảng” là do chữ “tuồng cổ” nói lái mà thành. Nhưng “tuồng cổ” mà lái thành “hồ quảng” thì coi bộ cái “lái” này nghe khá gượng ép!

Nghệ sĩ Phượng Mai thì giải thích rằng: “‘Quảng’ đây là ‘Quảng Ðông’ (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị... không có ăn nhậu gì trong cái “Quảng” này!) Tại sao lại Quảng Ðông mà không phải là những ‘Quảng’ kia? Thưa, vì tuồng cải lương Hồ Quảng chịu ảnh hưởng rất lớn của tuồng kịch truyền thống miền Quảng Ðông.”

Thế còn Hồ? Không lẽ ông... Hồ Quý Ly có liên quan đến cải lương Hồ Quảng? Ðương nhiên là không rồi. Cũng theo nghệ sĩ Phượng Mai thì “Hồ” là biến âm của “hò,” nghĩa là những điệu ca tiếng hát. “Hồ Quảng” là điệu ca tiếng hát miền Quảng Ðông. Giải thích chữ “Hồ Quảng” theo cách của nghệ sĩ Phượng Mai có vẻ lọt tai hơn.

Ảnh hưởng qua lại giữa bốn quốc gia “đồng văn” (chia sẻ một số quan niệm văn hóa) khiến cho Việt Nam chịu khá nhiều ảnh hưởng Trung Hoa trong ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật. Ðiểm đặc biệt là khi các truyện tích Trung Hoa được các văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ Việt Nam thuật lại hay diễn lại, nó mang tính chất nghệ thuật rất độc đáo của Việt Nam, mà truyện tích khi ấy chỉ là cái cơ hội để người nghệ sĩ Việt Nam diễn tả cái hay, cái đẹp, cái tuyệt diệu của ngôn ngữ, ý tưởng, tâm tình Việt Nam. Cụ Nguyễn Du nói chuyện đời cô Vương Thúy Kiều quê ở Bắc Kinh, mà người đọc luôn luôn có cảm giác cô là người Việt Nam. Cả những Kim Trọng, Thúc Sinh, Từ Hải, Sở Khanh, Tú Bà... đều trở thành người Việt Nam sống với tâm tình và cách xử thế Việt Nam tuốt. Ma Ðạm Tiên cũng thành ma Việt Nam luôn! Chuyện này cũng xảy ra (tuy với mức độ thấp hơn) nơi các nghệ sĩ Việt Nam diễn tuồng cải lương Hồ Quảng.

Nguồn gốc cải lương Hồ Quảng Việt Nam như thế nào?

Ðây là một loại hình nghệ thuật phối hợp giữa ba loại nghệ thuật vốn có từ trước: cải lương, tuồng kịch Bắc Kinh và tuồng kịch Quảng Ðông.

Cuối thập niên 1940 sang đầu thập niên 1950, những nghệ sĩ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ có dịp sang Quảng Ðông học hỏi cách nhảy múa (tiếng nhà nghề là “vũ đạo”) của các nghệ sĩ trình diễn tuồng kịch truyền thống ở đây. Các nghệ sĩ này khi về nước, đem áp dụng “vũ đạo” này trên sân khấu, thấy thành công. Giữa thập niên 1950 sang đầu thập niên 1960 (thời kỳ chuyển tiếp giữa cựu hoàng Bảo Ðại và nền Ðệ Nhất Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lãnh đạo), các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh và Minh Tơ lần mò vào Chợ Lớn, tìm đến những gánh hát người Hoa, mua lại một số trang phục sân khấu của họ. Những trang phục này rất rực rỡ, mặc vào, lên sân khấu là đào, kép nổi bật, làm cho sân khấu cũng rực rỡ theo. Hai nghệ sĩ này cũng học hỏi từ các gánh hát người Hoa nhịp điệu trống, bắt nguồn từ cách diễn tuồng của phái Bắc Kinh. Tiếng trống rộn rã giúp cho buổi trình diễn thêm tưng bừng náo nhiệt. Tiếng trống còn có tác dụng thay đổi tâm tình khách xem trình diễn, tùy theo nhịp điệu nhanh, chậm, cách ngắt quãng của nó. Các nghệ sĩ cũng học một số cách hát theo điệu Quảng Ðông.

Trở về sân khấu Việt Nam, các nghệ sĩ Khánh Hồng, Bảy Huỳnh, Minh Tơ (sau thế hệ Phùng Há, Cao Long Ngà, Năm Phỉ) pha điệu hát Hồ Quảng vào các tuồng cải lương. Về sau, khi khán giả có vẻ chấp nhận, cải lương Hồ Quảng trở thành một bộ môn riêng, với nhịp trống, điệu hát và y trang Bắc Kinh, Quảng Ðông, phối hợp với cách hát cải lương và ca vọng cổ. Cải lương Hồ Quảng có nhiều ưu thế trên sân khấu. Về y trang rực rỡ và cách diễn bằng “biểu tượng” thì không thua gì hát bội, nhưng hát bội lại khó nghe, khó hiểu, trong khi đào kép trong cải lương Hồ Quảng thì nói ít, diễn nhiều, khi hát thì hát theo lối vọng cổ và một số làn điệu của cải lương rất dễ nghe, có hát theo điệu Quảng Ðông thì điệu ấy nghe cũng lọt tai. Ðặc biệt, cải lương Hồ Quảng lại có “vũ đạo,” tức là cách đưa tay, đá chân theo nhịp điệu như múa, mà là múa võ, nên gây hào hứng trên sân khấu. Khán giả thường có thể không biết rõ, nhưng con nhà võ ngồi thưởng thức đào, kép sử dụng “vũ đạo” đều biết được đào, kép ấy trình độ tới đâu.

Cũng trong thập niên 1960, có phong trào phim Ðài Loan du nhập Việt Nam qua những bộ phim của hãng sản xuất Show Brothers với loại nhạc Ðài Loan. Những phim này cũng làm khán giả Việt Nam say mê. Một số âm điệu nhạc Ðài Loan liền được đưa vào sân khấu cải lương. Lúc ấy tuồng cải lương Hồ Quảng có vẻ... hồ quảng lắm rồi! Nghĩa là vì các điệu hát lẫn lộn lung tung, nó phát triển, nhưng hầu như không định hướng, không có hệ thống. Rất may khi ấy có một nhân vật đặc biệt xuất hiện, đó là ông Hoàng Hầu Bình (giới sân khấu gọi ông là ông Há Thầu). Ông này vốn là một kép chánh trong sân khấu Hồng Kông, sau lớn tuổi, sang Việt Nam, đánh đàn cho đoàn Minh Tơ-Khánh Hồng. Ông Hoàng Hầu Bình sau về đầu quân đoàn Huỳnh Long và có công hệ thống hóa các bài hát theo từng loại: Bắc Phái (Bắc Kinh), Quảng Ðông, Ðài Loan... Ðoàn Huỳnh Long khi diễn tuồng cải lương Hồ Quảng thì nghiêng về khuynh hướng Bắc Kinh, chủ yếu về “vũ đạo” và nhịp trống; còn đoàn Khánh Hồng thì có khuynh hướng Quảng Ðông, để ý hơn đến điệu hát. Dàn nhạc của khuynh hướng Bắc Kinh cũng khác dàn nhạc của khuynh hướng Quảng Ðông. Trong khi dàn nhạc khuynh hướng Bắc Kinh đồ sộ và cồng kềnh giống như một dàn “orchestra” Tây Phương thì dàn nhạc khuynh hướng Quảng Ðông gọn nhẹ với năm, bảy nhạc khí cổ truyền. Cách hóa trang của hai bên cũng khác nhau: sân khấu Bắc Kinh tô vẽ mặt đào, kép với những nét trắng, đỏ, đen biểu tượng khiến cho khuôn mặt “sân khấu” khác hẳn khuôn mặt đời thường. Sân khấu Quảng Ðông giữ khuôn mặt đẹp tự nhiên của đào kép, chỉ tô son, thoa phấn cho đẹp hơn thôi.

Tính theo thế hệ thì những nghệ sĩ lão thành Năm Phỉ, Phùng Há, Cao Long Ngà là thế hệ thứ nhất. Cho đến nữ nghệ sĩ Phượng Mai thì đã là thế hệ thứ năm rồi. Tuy các thế hệ có nối tiếp nhau để phát triển bộ môn, nhưng đặc thù của cải lương Hồ Quảng cho đến nay vẫn được gìn giữ.

Có thể nói đây là một bộ môn nghệ thuật sân khấu Việt Nam có một nguồn gốc khác phức tạp: cải lương, hát bội, sân khấu Bắc Kinh, sân khấu Quảng Ðông, nhạc Việt Nam truyền thống, nhạc Ðài Loan, võ thuật Bắc Phái... Tuy nhiên, qua cách trình diễn của các nghệ sĩ Việt Nam, tất cả các loại hình nghệ thuật này phối hợp nhuần nhuyễn với nhau, tạo thành một sắc thái riêng. Khán giả thưởng thức một vở tuồng diễn theo lối cải lương Hồ Quảng nhìn thấy ngay là nó rất Việt Nam, không lẫn với ca kịch Trung Hoa được. Ðó là cái tài của người nghệ sĩ, mà đó cũng là cái đặc thù của văn hóa Việt Nam, đón nhận cái của người, nhưng biến hóa nó, thăng tiến nó để nó hay hơn, đẹp hơn mà lại có tính chất Việt Nam. ( theo trang nsphuongmai.forum0.info)/t495-topic

Trang điểm

Soi gương

Tướng giặt

Thay trang phục

Bên cánh gà

Thế hệ tiếp nối

Xung quanh sân khấu

Khán giả lớn tuổi

Khán nhỏ nhỏ tuổi

Thư giãn

nhombientap · 1877 ngày trước
Bình luận
Xếp theo: 
Trên một trang: 
 
  • Chưa có bình luận nào
Post info
07.07.2011 (1877 ngày trước)
Tùy chọn
Đánh giá
0 đánh giá
Đề xuất
 
Bài nổi bật
Chuyên mục
Miền Nam (3 bài)
Miền Trung (1 bài)
Tin tức (3 bài)
Điểm đến (1 bài)
Xem hát cúng đình